Nội dung sửa đổi luật thuế GTGT áp dụng từ 1-7-2016

Sửa đổi, bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) số 13/2008/QH12

Ngày 06/4/2016, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội Khoá XIII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế. Với hiệu lực thi hành sớm kể từ ngày 01/07/2016, Luật thể hiện các thông điệp chính sách nhằm đơn giản công tác quản lý thuế, tăng tính khả thi trong tuân thủ, đồng thời bảo vệ doanh nghiệp Việt Nam một cách hợp pháp trong bối cảnh hội nhập sâu hơn từ năm 2018. Tạp chí Thuế nhà nước trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc những nội dung chính của đạo luật này.

thue vat 2016

Một là, Tiếp theo những nội dung đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật số 31/2013/QH13, thuế GTGT kiên trì thực hiện nguyên tắc đối xử công bằng giữa hàng nông sản nhập khẩu và hàng nông sản được sản xuất trong nước, bảo đảm sự bình đẳng giữa DN trong nước và DN nước ngoài. Từ thực tiễn thi hành Nghị định số 209/2013/NĐ-CP, Thông tư số 219/2013/TT-BTC, số 26/2015/TT-BTC, quy định về thuế đối với hàng nông sản được kế thừa và bổ sung thêm nội dung nhằm vừa tạo thuận lợi cho lưu thông hàng hoá, vừa ngăn chặn việc lợi dụng để hoàn thuế đối với nông sản xuất khẩu. Theo đó, Khoản 1, điều 5 Luật thuế GTGT nay được sửa đổi theo hướng: “Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và các mặt hàng này ở khâu nhập khẩu thì thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Tại khâu kinh doanh tiếp theo, các DN, hợp tác xã (là người nộp thuế theo phương pháp khấu trừ) có mua sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường để bán cho DN, hợp tác xã khác thì không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Với quy định này, các DN, hợp tác xã kinh doanh hàng nông sản trong thị trường nội địa sẽ vừa tiết kiệm được chi phí tài chính do không phải bỏ tiền nộp thuế trước đối với hàng nông sản khi mua vào hoặc nhập khẩu; đồng thời bảo đảm được quyền khấu trừ thuế đầu vào đối với các chi phí trong khâu lưu thông có đóng góp làm tăng giá trị của hàng hoá nông sản (như chi phí đóng gói, xử lý, bảo quản, vận tải, quản lý,…).

Hai là, Mở rộng diện đối tượng không chịu thuế GTGT (nội dung tại khoản 9, điều 5 Luật thuế GTGT) đối với các hoạt động dịch vụ mang tính bảo trợ, an sinh xã hội, như: Dịch vụ y tế, dịch vụ thú y, bao gồm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng bệnh cho người và vật nuôi; nay bổ sung thêm dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật cũng thuộc diện không chịu thuế GTGT để người cao tuổi, người khuyết tật có cơ hội thụ hưởng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ, dưỡng lão với mức giá hợp lý.

Ba là, Luật quy định cụ thể, rõ ràng tiêu chí trong phân loại tài nguyên làm cơ sở thiết kế các chính sách khuyến khích chế biến sâu, hạn chế và không khuyến khích xuất khẩu tài nguyên dạng thô, khoáng sản chưa qua chế biến, hoặc có giá trị chế biến thấp. Trên cơ sở đó, chúng ta sẽ không áp dụng thuế suất 0% và cũng không thực hiện việc khấu trừ thuế đầu vào đối với: “Sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác; sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản có tổng trị gía tài nguyên, khoáng sản công với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên.”. Nội dung về tiêu chí 51% được thể hiện trong sửa đổi khoản 23 của điều 5 và quy định không áp dụng thuế suất 0% được thể hiện sửa đổi tại cuối khoản 1 của điều 8 Luật thuế giá trị gia tăng. Bên cạnh đó, tiếp tục kế thừa và quy định rõ hơn đối với các trường hợp xuất khẩu ra nước ngoài nhưng không được áp dụng thuế suất 0% (gồm các hoạt động: Chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn ra nước ngoài, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu chính, viễn thông chiều đi ra nước ngoài; sản phẩm xuất khẩu tài nguyên khoáng sản nêu trên.)

Bốn là, Không thực hiện hoàn thuế GTGT đối với sản xuất kinh doanh khâu nội địa nhằm thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường biện pháp quản lý, giảm bớt tồn kho, đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá. Đồng thời xoá bỏ tình trạng khó khăn lâu nay là: trong một doanh nghiệp có tháng thì được hoàn thuế, nhưng có tháng phải nộp thuế; nhiều khi số thuế đề nghị hoàn đang bị khoanh lại nhưng doanh nghiệp phải bỏ tiền nộp thuế ngay. Quy định về hoàn thuế GTGT tại điều 13 Luật thuế GTGT sẽ có 03 nội dung mới được sửa đổi, bổ sung như sau:

(i). Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết trong tháng hoặc trong quý thì được khấu trừ vào kỳ tiếp theo (thay cho quy định hiện nay là được hoàn thuế nếu doanh nghiệp có số thuế GTGT đầu vào luỹ kế 12 tháng chưa được khấu trừ hết).

(ii). Trường hợp cơ sở kinh doanh có dự án đầu tư mới, có số thuế GTGT của hàng hóa, dịch vụ mua vào đang sử dụng cho đầu tư mà doanh nghiệp chưa được khấu trừ và có số thuế còn lại từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế GTGT. Tuy nhiên, sẽ không được hoàn số thuế GTGT chưa được khấu trừ của dự án đầu tư, mà chuyển sang kỳ tiếp theo để khấu trừ đối với các trường hợp:

+ Dự án đầu tư của doanh nghiệp không góp đủ số vốn điều lệ như đã đăng ký; kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh theo quy định của Luật đầu tư hoặc không bảo đảm duy trì đủ điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động;

+ Dự án đầu tư khai thác tài nguyên, khoáng sản được cấp phép từ ngày 017/2016 hoặc dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hàng hóa mà tổng giá trị tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên.

(iii). Cơ sở kinh doanh trong tháng, quý có hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế theo tháng, quý. Tuy nhiên, việc hoàn thuế sẽ không áp dụng trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu, hàng hóa xuất khẩu mà không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật hải quan. Bên cạnh đó, Luật có quy định mới tạo thuận lợi và nhiều ưu đãi cho doanh nghiệp chấp hành tốt pháp luật về thuế và hải quan, đó là áp dụng chế độ ưu tiên là: Thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với người nộp thuế là doanh nghiệp sản xuất hàng hóa xuất khẩu mà trong 2 năm liên tục không vi phạm pháp luật về thuế, hải quan và người nộp thuế không thuộc đối tượng rủi ro cao theo quy định của Luật quản lý thuế.

Sửa đổi quy định về hoàn thuế cũng sẽ góp phần ngăn chặn tình trạng trốn thuế, lợi dụng hoàn thuế đối với những doanh nghiệp lâu nay làm ăn bất chính do tận dụng quy định được khấu trừ toàn bộ thuế đầu vào trong khi họ bán hàng không xuất hoá đơn đầu ra. Với quy định mới mà DN vẫn làm như trước thì tự chịu lấy toàn bộ số thuế đầu vào không được khấu trừ, NSNN cũng sẽ giảm được rủi ro khâu hoàn thuế.

Nguồn: Tồng Cục Thuế